Những chuẩn thiếu tính khoa học đối với trẻ 5 tuổi

Lượt xem:


treem3.bmpTT –  Bộ Giáo dục và đào tạo (GD-ĐT) vừa có dự thảo “Chuẩn phát triển của trẻ 5 tuổi”. Nhưng ngay sau khi ban hành dự thảo, những chuẩn và chỉ tiêu này đã gây ra nhiều phản ứng không mấy tích cực.

Trong hàng trăm ý kiến phản biện, phần lớn tập trung vào những sự mâu thuẫn, trùng hợp, thiếu hợp lý và tính phi thực tế của bộ chuẩn. Có người thậm chí còn cho rằng một số chuẩn rất ngô nghê (như trẻ phải biết mình là trai hay gái)! Tuy nhiên ngoài những vấn đề trên, bộ chuẩn này còn có nhiều vấn đề mang tính nguyên lý và khoa học cần phải được thảo luận để đi đến một bộ chuẩn hoàn chỉnh và mang tính khả thi cao hơn.

Trước hết là vấn đề nguyên lý và định nghĩa. Theo quan điểm của Bộ GD-ĐT, “chuẩn là yêu cầu về năng lực mà chúng ta mong muốn trẻ biết và có thể làm được”. Nhưng theo cách hiểu của giới khoa học, chuẩn là những chỉ tiêu chung mà phần lớn trẻ trong cùng độ tuổi (5 tuổi) nên biết và có khả năng thực hành.

Vấn đề nguyên lý

Bất cứ chuẩn nào cũng phải được phát triển dựa vào một số nguyên lý. Ở đây chưa ai biết Bộ GD-ĐT dựa vào những nguyên lý nào để phát triển bộ chuẩn này. Là người từng đóng vai trò người cha, tôi nghĩ những nguyên lý không thể thiếu được là: (1) tất cả trẻ cần tích cực tìm hiểu thế giới xung quanh mình, tiếp thu kiến thức và phát triển những kỹ năng giải quyết vấn đề; (2) trẻ tiếp thu kiến thức và giá trị đạo đức qua tương tác với cha mẹ, bà con quyến thuộc, thầy cô, láng giềng và qua khám phá môi trường xã hội; (3) khuyến khích trẻ làm việc theo nhóm, có những mối liên hệ hợp tác với bạn cùng lứa tuổi; (4) ghi nhận rằng trẻ có quyền biểu lộ những khác biệt cá nhân trong quá trình phát triển; (5) gia đình và cha mẹ là những người thầy cô quan trọng nhất.

Tôi có cảm tưởng phần lớn các chuẩn và chỉ tiêu của Bộ GD-ĐT đề ra bám sát các nguyên lý trên đây, nhưng cũng có chỉ tiêu còn xa rời thực tế. Có lẽ chính vì thế bộ chuẩn rất cứng nhắc. Thực tế xã hội cho thấy một số trẻ có thể vượt trội, nhưng cũng có một số trẻ chưa đạt được những chuẩn này. Cũng như nhiều người trong xã hội có những kỹ năng khác nhau và có thể đóng góp cho phát triển xã hội, vì thế cần ghi nhận rằng những khác biệt về kỹ năng và kiến thức giữa trẻ là hoàn toàn tự nhiên. Do đó, đặt ra những con số cụ thể vô hình trung biến vấn đề mang tính nhân văn thành máy móc phi nhân bản.

Nên ghi vào hồ sơ của trẻ?

Tuy nhiên, vì Bộ GD-ĐT muốn giáo viên phải là người trực tiếp đánh giá và kết quả đánh giá sẽ được lưu trong hồ sơ cá nhân của trẻ, tôi nghĩ cần phải xem xét lại điểm này. Theo tôi, chuẩn không phải là chương trình giảng dạy giáo khoa, nên không ai đưa vào hồ sơ cá nhân hay hồ sơ học tập của trẻ. Việc này cần phải xem lại, vì tôi tin Bộ GD-ĐT không có ý định gieo vào trẻ tâm lý “thất bại” khi hồ sơ của trẻ bị đánh giá chưa đạt.

Thật vậy, ở nước ngoài như Úc chẳng hạn, giáo viên không bao giờ ghi những chỉ tiêu này vào học bạ, nhưng họ có thể báo cho phụ huynh biết nếu trẻ thật sự có khiếm khuyết nghiêm trọng. Điều này hợp lý, vì chuẩn là mục tiêu cho cha mẹ sử dụng trong việc dạy dỗ con em mình và theo nguyên lý số 5 trên, cha mẹ chính là người “giáo viên” quan trọng cho trẻ.

Nội dung ôm đồm

Về nội dung, bộ chuẩn bao gồm 29 chuẩn với 125 chỉ số. Tuy Bộ GD-ĐT dùng từ “chỉ số”, nhưng tôi nghĩ “chỉ tiêu” (indicator) thì đúng hơn vì chỉ số hàm ý nói đến khái niệm index. Theo tôi, các chỉ tiêu Bộ GD-ĐT đưa ra quá nhiều và như đã có người chỉ ra là trùng lặp, mâu thuẫn, thậm chí không cần thiết.

Ở nước ngoài như Mỹ chẳng hạn, một số nhỏ (chứ không phải tất cả) trường mẫu giáo cũng đề ra một số chuẩn để đánh giá khả năng của trẻ trước khi bước vào tiểu học. Tuy nhiên, các chuẩn của họ thường nhẹ và không ôm đồm như của Bộ GD-ĐT. Phần lớn các bộ chuẩn ở Mỹ mà người viết bài này biết chỉ bao gồm ba chuẩn và khoảng 18 chỉ tiêu. Ba chuẩn này là phát triển thể lực và thể chất, vệ sinh và ý thức về an toàn. Họ không có những chỉ tiêu mang tính cân đo đong đếm. Nói chung là những chỉ tiêu nhẹ nhàng và rất gọn so với hàng chục chỉ tiêu quá chi tiết như của Bộ GD-ĐT.

Để đánh giá chính xác 125 chỉ tiêu này, giáo viên cần phải có kiến thức chuyên sâu về tâm lý xã hội học, vốn rất thiếu ở nước ta hiện nay. Chẳng hạn như không phải ai có trình độ đại học (chứ chưa nói đến trẻ) có thể phân biệt nguyên nhân và hệ quả (chứ không phải “kết quả” như Bộ GD-ĐT viết), vì vấn đề mang tính triết lý khoa học. Do đó nếu đưa vào thực tế, tính khả thi của bộ chuẩn này sẽ rất thấp như nhiều người đã chỉ ra. Nếu thực hiện chắc chắn sẽ gây bất công, tiêu cực, thậm chí xáo trộn trong nhà trường.

Đọc qua những chỉ tiêu của Bộ GD-ĐT, tôi có cảm giác như là một bộ câu hỏi (questionnaire) mà chúng tôi hay sử dụng trong các nghiên cứu lâm sàng dịch tễ học ở người cao tuổi. Tuy nhiên, điểm khác biệt giữa bộ câu hỏi và bộ chuẩn của Bộ GD-ĐT là bộ câu hỏi được phát triển và thử nghiệm rất kỹ trước khi áp dụng vào thực tế lâm sàng. Còn những chỉ tiêu của Bộ GD-ĐT thì không ai biết tính khoa học ra sao và theo tôi, đó làm một khiếm khuyết nghiêm trọng. Ở nước ngoài, không ai đưa vào chính sách hay quy định mà không qua nghiên cứu nghiêm chỉnh.

Thiếu bằng chứng khoa học

Bất cứ chính sách hay quy định nào có ảnh hưởng đến một phần lớn cộng đồng cần phải dựa vào bằng chứng khoa học. Không nên đặt ra những con số cứng nhắc mà không có cơ sở khoa học rõ ràng. Không ai biết Bộ GD-ĐT dựa vào cơ sở nào mà đưa ra những chỉ tiêu cứng nhắc theo hình thức “cân đo đong đếm” như: phải có độ bật xa tối thiểu 50cm bằng hai chân hay nhảy cò cò được ít nhất năm bước, đi giật lùi được ít nhất 5m… Người ta phải hỏi nếu một trẻ chỉ bật xa 49cm là không đạt chuẩn, và dựa vào tiêu chí gì để nói là đạt hay không đạt chuẩn. Đây là những câu hỏi mang tính khoa học nhưng có ảnh hưởng đến nhiều trẻ.

Bộ GD-ĐT cho biết đã xây dựng bộ chuẩn dựa trên khảo sát 700 trẻ ở các vùng, miền khác nhau. Nhưng chúng ta không thấy kết quả của khảo sát này được công bố trên một tập san khoa học nào hay được đề cập trên báo chí. Theo tôi, để nâng cao tính minh bạch Bộ GD-ĐT nên công bố chi tiết về phương pháp nghiên cứu, kết quả ra sao (với số liệu cụ thể) để công chúng và các chuyên gia trong ngành có thể thẩm định.

Vấn đề quan trọng đặt ra là làm sao Bộ GD-ĐT minh chứng được rằng 125 chỉ tiêu đạt chuẩn mực khoa học. Cụ thể hơn, những chỉ tiêu đó có thật sự phản ánh những điều mà bộ cần biết (còn gọi là tính “hợp lý nội tại”), những chỉ tiêu đó có thật sự ứng dụng cho nhiều trẻ, kể cả trẻ khuyết tật (tức tính “hợp lý ngoại tại”) và độ tin cậy của những chỉ tiêu đó ra sao (nếu áp dụng cho một trẻ nhiều lần có cho ra cùng kết quả). Có rất nhiều câu hỏi cơ bản về khoa học và phương pháp vẫn chưa được giải quyết thỏa đáng.

NGUYỄN VĂN TUẤN

Dự thảo bộ chuẩn phát triển trẻ 5 tuổi

Bộ chuẩn phát triển trẻ 5 tuổi do Bộ GD-ĐT soạn thảo vừa được công bố do Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Vinh Hiển ký. Bản dự thảo bao gồm 29 chuẩn với 125 chỉ số đánh giá sự phát triển của trẻ 5 tuổi theo bốn lĩnh vực phát triển là phát triển thể chất, phát triển tình cảm và quan hệ xã hội, phát triển ngôn ngữ và giao tiếp, phát triển nhận thức và sẵn sàng cho việc học.

Tại lĩnh vực phát triển thể chất, không đưa ra các chuẩn về chiều cao, cân nặng nhưng lần đầu tiên Bộ GD-ĐT đặt ra các yêu cầu trẻ 5 tuổi phải chạy liên tục không tính thời gian 150m, không bỏ cuộc giữa chừng, chạy 18m với thời gian nhiều nhất 5 giây, đi được thăng bằng trên ghế thể dục. Cũng ở lĩnh vực này yêu cầu trẻ phải biết các hành vi ăn uống có hại cho sức khỏe, biết thuốc lá có hại cho sức khỏe, biết thực hành về an toàn cá nhân, chăm sóc vệ sinh cá nhân.

Lĩnh vực phát triển tình cảm và quan hệ xã hội yêu cầu trẻ biết chấp nhận và hoàn thành công việc được giao, biết hài lòng với công việc được giao, biết quan tâm, thích thú với các hiện tượng trong thiên nhiên, thích chăm sóc cây cối, con vật, chấp nhận sự khác biệt giữa người khác với mình.

Ở lĩnh vực phát triển ngôn ngữ và giao tiếp yêu cầu trẻ biết bày tỏ cảm xúc, nhu cầu, ý nghĩ hoặc kinh nghiệm bản thân, biết sử dụng lời nói để trao đổi, hợp tác, chỉ dẫn bạn bè trong khi chơi, biết điều chỉnh giọng nói phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp.

Lĩnh vực phát triển nhận thức và sẵn sàng cho việc học, yêu cầu trẻ phải biết nhận thức về môi trường tự nhiên, xã hội, số đo, số đếm, hình học, nhận thức về thời gian, có khả năng suy luận và khả năng sáng tạo…

Mỗi chỉ số sẽ được quy ra điểm để đánh giá mức độ đạt được của trẻ, từ đó đánh giá chất lượng giáo dục chăm sóc trẻ.

Bà Lê Minh Hà, vụ trưởng Vụ Giáo dục mầm non – Bộ GD&ĐT, cho biết: “Dự thảo được công bố rộng rãi với mục đích trưng cầu ý kiến, nên chúng tôi sẽ lắng nghe hết các ý kiến đóng góp rồi sau đó mới nghiên cứu tiếp, điều chỉnh theo đúng quy trình”.

VĨNH HÀ